“Tôi, Tăng Sinh Thích Thanh Tuệ, 17 tuổi, kính gởi đến ông những nguyện vọng độc nhất trước khi tôi về cõi Phật:
-
Hãy chấm dứt mọi tình trạng khủng bố và áp bức Phật Giáo Đồ và thả gấp tất cả những Phật Tử bị bắt giam kể từ ngày mồng 8 tháng 5 năm 1963 đến nay.
-
Hãy giải quyết thỏa đáng gấp những nguyện vọng của Phật Giáo Đồ đã nêu trong các biểu ngữ.
-
Triệt để không cho bà Ngô Đình Nhu lên đài phát thanh, tiếng nói Việt Nam Cộng Hòa để nhục mạ Phật Giáo, báng bổ cố Hòa Thượng Thích Quảng Đức, vì việc làm ấy không những không làm giảm giá trị của Phật Giáo, mà trái lại gây sự căm phẫn trong quần chúng”.
“Trước khi về cõi Phật, tôi trân trọng gởi đến quý Ngài lời chào tối hậu và tôi xin thành kính cầu nguyện Hồng ân Tam Bảo, Bồ Tát Quảng Đức, liệt vị Thánh Tử Đạo gia hộ quý Ngài pháp thể khinh an để đoàn kết chặt chẽ sau lưng Hòa Thượng Hội Chủ Thích Tịnh Khiết và Ủy Ban Liên Phái Bảo Vệ Phật Giáo tranh đấu cho nền tín ngưỡng của dân tộc và yêu cầu chính phủ thực thi những nguyện vọng tối thiểu mà quý Ngài đã ghi trong các biểu ngữ, trong các báo chí Phật Giáo”.
Đại Đức đã tiên liệu trước, sau sự tự thiêu của mình, gia đình sẽ gặp nhiều khó khăn do chính quyền tạo ra bằng cách mua chuộc, hoặc khủng bố nên Đại Đức đã viết bức thư gởi gia đình như sau:“Con chết đi, Cậu phải đương đầu với mọi đe dọa, nhưng Cậu đừng sợ, đừng xiêu lòng khi họ dùng những mánh lới khác, mà Cậu phải hy sinh hoàn toàn cho Phật Giáo, dù cho bản thân tứ đại của Cậu phải bị diệt vong.
Lần cuối cùng, con kính lời đến gia đình con, quý bác, chú, thím, cô, dì, cậu, mợ và quý anh, chị, em họ hàng thúc bá nội ngoại xa gần lời chúc vĩnh biệt, trước khi con về cõi Phật”.
Trước ngày tự thiêu 9 hôm, tức là ngày mùng 4.8.1963, nhằm ngày rằm tháng 6 là ngày giỗ mẹ, Đại Đức cùng ngài trụ trì Thích Đảnh Lễ về quê nhà. Đại Đức tụng niệm suốt đêm ngày để cầu siêu cho mẹ và cũng là lần chót Đại Đức từ giã gia đình về cõi Phật. 2 giờ khuya 13.8.1963, trong lúc thầy Bổn Sư đi vắng, trước tam quan ngôi chùa Phước Duyên hẻo lánh xứ Huế, ngọn lửa đại hùng của Thích Thanh Tuệ bừng lên làm tỏa rạng cả một bầu trời đen thẳm. Tăng Ni Phật Tử các nơi nghe tin ấy, tấp nập kéo về chùa Phước Duyên như thác đổ trước khi nhân viên công lực hay tin. Họ đến vừa là để chiêm bái, cầu nguyện, vừa để bảo vệ và rước nhục thân của Đại Đức đến Tổ đình Từ Đàm tổ chức tang lễ. Nhưng cảnh sát đã không cho phép đưa di thể người Học Tăng trẻ tuổi về Từ Đàm. Chính quyền bấy giờ đã ra lệnh cho các tùy viên mật vụ, công an, cảnh sát, tấn công một cách tàn bạo vào đoàn người di chuyển nhục thân của Đại Đức, việc xô xát diễn ra trong cuộc đàn áp khiến 25 người dân trong làng đã bị thương, trong số đó có 5 người phải chở đi bệnh viện. Công an đã cướp thi hài của Đại Đức chở đi mất tích khi đoàn rước mới di chuyển đi ngang qua khu vực chùa Linh Mụ. Những kẻ bạo tàn có thể cướp mất di thể của Đại Đức, nhưng không bao giờ cướp mất được ý chí tự chết cao cả của Người; không bao giờ cướp mất được lòng ngưỡng mộ tôn kính của hàng lớp người đối với Người; không bao giờ xóa tan được ý chí tự chết đầy kiêu hãnh, hào hùng của Đại Đức trong dòng lịch sử của Đạo Pháp và Dân Tộc Việt. Đại Đức chết để đi vào huyền sử, để trở thành bất tử trong lòng người. Chết để nói lên rằng, kẻ yêu chuộng chân lý không bao giờ khuất phục trước bạo tàn. Chấp nhận cái chết là chấp nhận sự đấu tranh để bảo vệ chân lý đến cùng. Tự chết để đấu tranh là sự tranh đấu cao nhất của kẻ bị áp bức, mất hết mọi quyền tự do của mình. Đại Đức nguyện tự chết để cho lương tâm, lương tri và tình người sớm được phát sanh nơi tâm hồn bạo chúa đã bị chai lì.Trước cái chết như thế, tờ báo Le Monde của Pháp ra ngày 12.6.1963, đã có lời nhận định về sự tự thiêu của các Thánh Tử Đạo Phật Giáo Việt Nam: “Tự sát để đấu tranh, kẻ táo bạo nhất cũng phải lùi bước”.
oOo theo 50 năm chấn hưng Phật giáo của HT Thích Thiện Hoa