Tháp Phật, tự viện hoặc kiến trúc hang đá, đều đại diện cho Phật giáo, trở thành trung tâm tín ngưỡng của tín đồ. Từ xưa tới nay, tự viện trên hết có đủ chức năng trường học, ví dụ: những quy hoạch trong tinh xá Kỳ viên Ấn Độ đều là giảng đường; tự viện cổ xưa Trung Quốc đều có thiết đặt pháp đường, tàng kinh lâu, chính là phòng học, thư viện của ngày nay. Thậm chí, bao năm qua Phật giáo từng tổ chức không ít trường học miễn phí, tự viện cũng trở thành trường học. Ở Trung Quốc, các bậc túc nho, danh tướng qua các triều đại như Lưu Hiệp1, Phạm Trọng Yêm2, Vương An Thạch3, Lương Thấu Minh4 … , chính là những nhân vật từng khổ luyện, dùi mài kinh sử và đã thành công từ chốn tự viện.
Tự viện thật sự giống như trạm xăng dầu của đời người, công ty tổng hợp của tâm linh, là ngôi trường bồi dưỡng nhân cách thánh hiền, cũng là nơi giao hảo qua lại của thiện hữu, và trên hết là chốn mát lành gột rửa mọi phiền tạp, u hoài. Kiến trúc tự viện trong tương lai ngoài việc bảo lưu các cơ sở như Phật điện, khách đường, trai đường, trà đường, nhà kho, còn đặc biệt trang bị thêm nhà hội nghị, giảng đường, thiền đường, phòng học, nhà trò chuyện, trung tâm nghe nhìn, trung tâm văn hóa giáo dục, phòng mỹ thuật, phòng triển lãm văn vật… , để thông qua pháp vụ, văn giáo, nghệ thuật… mà tự viện có thể phát huy đầy đủ công năng hoằng dương thánh giáo, giáo hóa xã hội, trở thành đạo tràng dung hòa chung của Tăng-tín tứ chúng, trở thành ngôi trường giáo hóa xã hội, trở thành trung tâm hội nghị nghiên cứu học thuật, trao đổi tri thức, làm cho tự viện mãi mãi trở thành là nơi quay về của lòng người và là chỗ gửi gắm tinh thần. - Lưu Hiệp (khoảng 465-520), tự Ngạn Hòa, nguyên quán ở huyện Cử, Đông Quản (nay thuộc huyện Cử, thành phố Nhật Chiếu, tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà phê bình, lý luận văn học nhà Lương thời Nam triều trong lịch sử Trung Quốc. Lưu Hiệp từ ‘sớm có chí hiếu học, nhà nghèo không cưới vợ, nương nhờ cửa Phật, tinh thông kinh luận đạo Phật. Vào thời Lương Vũ đế, từng giữ chức phụng triều thỉnh, đông cung thông sự xá nhân. Được thái tử Chiêu Minh trọng dụng. Những năm cuối đời xuất gia đi tu, lấy tên là Tuệ Địa. Vào cuối đời Nam Tề, viết cuốn “Văn tâm điêu long”, là một tác phẩm lớn về lý luận phê bình văn học cổ đại Trung Quốc.’ (Daitudien.net)
- Phạm Trọng Yêm (989-1052), tự Hy Văn, người quận Ngô, nay thuộc Tô Châu, Giang Tô. Là nhà văn, nhà giáo dục, tướng lĩnh và nhà chính trị thời Bắc Tống, Trung Quốc.
- Vương An Thạch (1021-1086), tự Giới Phủ, hiệu Bán Sơn lão nhân, người Lâm Xuyên, Bắc Tống, nay là Giang Tây; nhà chính trị, nhà văn, nhà tư tưởng, nhà cải cách kiệt xuất trong lịch sử Trung Quốc, nhưng sai lầm trong việc xúi giục vua Tống xua quân xâm chiếm Đại Việt, chẳng những thua mà còn bị Đại Việt đem quân phá tan ba châu Khâm, Liêm, Ung.
- Lương Thấu Minh (1893-1988), nguyên quán ở Quế Lâm, Quảng Tây, tên thật là Hoán Đỉnh, tự Thọ Minh, có các bút danh Thọ Danh, Sấu Dân, Thấu Minh; nhà tư tưởng, triết học, giáo dục nổi tiếng thời hiện đại.
Nguồn: Phật giáo và thế tục, in trong bộ sách Phật học giáo khoa thư của Tinh Vân, NXB. Từ Thư Thượng Hải, năm 2008, trang 66 – 69.