Nhân vật Phật Giáo – Trang nhà GĐPT Việt Nam | Gia Đình Phật T?Việt Nam //sevalyilmaz.com Trang nhà GĐPT Việt Nam | Gia Đình Phật T?Việt Nam: sevalyilmaz.com - Cổng thông tin chính thức của t?chức GĐPT Việt Nam | Gia Đình Phật T?Việt Nam có truyền thống sinh hoạt t?năm 1951. Mon, 20 Feb 2023 15:12:10 +0000 vi hourly 1 //wordpress.org/?v=6.4.3 Nhân vật Phật Giáo – Trang nhà GĐPT Việt Nam | Gia Đình Phật T?Việt Nam //sevalyilmaz.com/thanh-kinh-tuong-niem-duc-dai-lao-hoa-thuong-de-ngu-tang-thong-giao-hoi-phat-giao-viet-nam-thong-nhat.gdpt Sat, 18 Feb 2023 10:05:45 +0000 //sevalyilmaz.com/?p=66580 qh88 Lin k?t ??ng nh?p

Đức Trưởng lão Hòa thượng Đ?Ngũ Tăng Thống Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất đã thuận th?/span> vô thường an nhiên viên tịch tại Phương trượng Chùa T?Hiếu, Sài Gòn,  lúc 21 gi?30 phút ngày 22 tháng 2 năm 2020 (nhằm ngày 29 tháng Giêng năm Canh Tý, Phật lịch 2563), tr?th?93 năm và 73 h?lạp.

qh88 Lin k?t ??ng nh?p

qh88 Lin k?t ??ng nh?p

]]>
Nhân vật Phật Giáo – Trang nhà GĐPT Việt Nam | Gia Đình Phật T?Việt Nam //sevalyilmaz.com/tuong-niem-duc-dai-lao-hoa-thuong-thich-tinh-khiet.gdpt Fri, 10 Feb 2023 08:36:59 +0000 //sevalyilmaz.com/?p=66365 qh88 Lin k?t ??ng nh?p

Tiểu s?/strong>

ĐỨC ĐẠI LÃO HÒA THƯỢNG THÍCH TỊNH KHIẾT –
Đ?NHẤT TĂNG THỐNG GIÁO HỘI PHẬT GIÁO VIỆT NAM THỐNG NHẤT
(1891-1973)

(BẢN TIỂU S?ĐƯỢC THƯỢNG TỌA ĐỨC NHUẬN – CHÁNH THƯ KÝ VIỆN TĂNG THỐNG,
ĐỌC TRONG DỊP L?NHẬP THÁP CỦA NGÀI,
NGÀY MỒNG 5 THÁNG 2, NĂM QUÝ SỬU (9-3-1973) TẠI CHÙA T?ĐÀM, HU?)

DANH HIỆU

V?phương diện tôn vinh và nhiệm mệnh thực t? C?Đại Lão Hòa Thượng Tịnh Khiết là v?Đ?Nhất Tăng Thống của Phật Giáo Việt Nam. Danh v?của Ngài chẳng phải do triều đình hay chính quyền sắc phong mà là do chính đại diện của toàn th?Tăng, tín đ?Nam, Bắc tông của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất suy tôn. Có th?nói ngôi v?Tăng Thống của Ngài chính là do công qu?đức hạnh và lòng tận tụy một đời của Ngài với đạo với đời vậy.

THÂN TH?/strong>

Ngài tên thật là NGUYỄN VĂN KỈNH, sinh ngày 17 tháng 11 năm Tân-mão (1891) tại làng Dưỡng Mong Thượng, xã Phú m? quận Phú vang, tỉnh Thừa thiên, con trai th?3 của c?NGUYỄN VĂN TOÁN và bà TÔN N?TH?LÝ.

ẤU THỜI

Năm lên chín tuổi, Ngài bắt đầu theo học ch?nho. Với tư chất thông minh, chẳng bao lâu Ngài đã tinh thông những b?sách căn bản của nho học. Nhưng có l?do túc duyên nhiều đời, chí xuất trần đã sẵn, nên sau sáu năm sách đèn theo Khổng Học, Ngài quyết chí xin Song Thân được cùng người anh ruột xuất gia tu học tại chùa Tường Vân, làng Dương Xuân H? quận Hương thủy, tỉnh Thừa thiên, th?giáo Ngài Thanh Thái (dòng Thiền Lâm T? đ?tam t?chùa Tường Vân, Ngài được T?nhận làm đ?t?ban pháp danh là (thượng) Trừng (h? Thông, t?Chơn Thường.

THỜI GIAN TU HỌC

Sau 3 năm, Ngài đã học xong chương trình trung đẳng Phật Học. Mặc dù trong thời gian mới nhập đạo này, đúng theo truyền thống Thiền tông, Ngài phải chấp tác nặng nhọc, ngoài việc học hành kinh k?

Vốn bẩm tính thông minh, sẵn có một đạo phong uy nghi t?lúc hãy còn nh?tuổi, nên Ngài rất được các bạn đồng tu kính n? Cũng do tư chất đặc biệt xuất chúng ấy, mà Ngài đã được đặc cách miễn tuổi đ?th?tam đàn c?túc vào năm 19 tuổi, ch?3 tháng sau khi th?Sa-di giới. Đại giới đàn này do Ngài Vinh Gia làm Đàn đầu, Ngài Tâm Truyền làm Yết Ma và Ngài Hoằng Phú làm Giáo th? Sau khi th?c?túc giới tr?v?chùa, Ngài phát tâm lạy b?vạn Phật nhất t?nhất bái suốt ba năm liền. Và đến năm 23 tuổi thì song thân Ngài t?trần cùng một lượt, ứng theo một lời nguyện khi sinh tiền của hai C? là được vãng sinh cùng một lúc.

CÔNG NGHIỆP HOẰNG PHÁP

Năm 26 tuổi, Ngài được b?x?Tr?Trì chùa Phước Hu?là chùa của Tuy Lý Vương lập cho một v?công tôn xuất gia tại V?d? Năm 30 tuổi Ngài đắc pháp, hiệu là t?th?42 của Thiền phái Lâm T?Trung phần hiệu Tịnh Khiết với Nghiệp sư là Hòa thượng Phước Ch?và được truyền một bài k?như sau:

Trừng thông tâm pháp bản đồng nhiên
Phó như chơn thường đạo chí kiên
Phi hữu phi vô phi s?kiến
Tịch nhiên khai ng?ch?nhân tiền

Năm 32 tuổi, Ngài tr?v?T?đình cư tang Nghiệp sư viên tịch. Sau đó, Ngài theo học lớp Cao Đẳng Phật Học với Hòa Thượng Hu?Pháp chùa Thiên Hưng, Ngài Phước Hu?chùa Thập tháp, tham cứu kinh điển Đại thừa suốt thời gian 5 năm. Năm 42 tuổi, Ngài làm dẫn thỉnh sư tại đại giới đàn T?Hiếu. Năm 44 tuổi, Ngài tr?v?tr?trì chùa Tường Vân, k?v?Hòa Thượng Tịnh Hạnh là anh ruột Ngài vừa viên tịch. Năm 1938 Ngài làm Chứng minh Đạo sư sáng lập An Nam Phật Học hội. Năm 1940 Ngài làm Giám đốc Đạo hạnh, Cao đẳng Phật Học viện m?tại T?đình Tường Vân và Báo Quốc, có những Tăng sinh v?sau tr?thành những bậc pháp khí như c?HT Thiện Hoa, Hòa thượng Thiện Hòa, HT Hành Tr? TT Trí Tịnh, TT Thiện Siêu, TT Thiện Minh, TT Trí Quang?Năm 1944, Ngài làm Yết Ma đại giới đàn m?tại T?đình Thuyền Tôn. Năm Ất Dậu (1945), Ngài phó pháp cho Pháp t?Pháp danh Tâm Ân, t?Vĩnh Thừa, hiệu Viên Quang k?vì t?thập tam th? Trong dịp này, Ngài ban cho 6 đ?t?đắc pháp bài k?dưới đây:

Tâm ấn viên minh ng?đạo tiên
Tham thuyền liễu đạt thấu chơn nguyên
Niên hoa phó nh?như lai tạng
Tục diệm hu?đăng vạn c?truyền

Năm 1947, Ngài th?phong chức v?Tùng Lâm Pháp ch?Trung Việt. Năm 1948, Ngài làm đàn đầu Hòa thượng cho đại giới đàn Báo Quốc và năm 1950 thì được suy tôn chức v?Hội Ch?Tổng Hội Phật giáo Việt nam. Năm 1951, Ngài ra Bắc ch?tọa Đại hội Giáo Hội Tăng Già Toàn Quốc tại chùa Quán s? Hà nội. Năm 1952, Ngài tr?vào Nam ch?tọa l?truy phong Pháp Ch?Phật giáo Nam Việt tại chùa Ấn Quang. Năm 1955, Ngài tham d?đại hội Phật giáo Th?giới tại Tích lan và chiêm bái Phật tích tại Ấn đ? Trong cuộc hành hương này Ngài có cảm tác hại bài k?ch?nho.

Nguyên văn như sau:

Đạp tuyết phong vân quá hải hà.
Du du hốt kiến lâu đài đa
Bảo tháp thất từng kim tú l?
B?Đ?thiên trượng ngọc bích hoa
Cảnh tối thâm u tần đáo t?/span>
Duy thường ái tịch niệm Thích Ca
Nhân duyên B?Tát khai phương tiện
Nhiếp tận chúng sinh l?Phật Đà

Lâm quang tịnh mậu trước thi biên
Phật quốc ký du hữu đại duyên
Tận địa kim ngân triệt vũ tr?
Thanh phong châu ngọc mãn nhân gian
B?đ?thành đạo trang nghiêm cảnh
Lộc uyển sơ niên chuyển pháp tiên
Ấn Đ?hoa khai chân tịnh x?/span>
K?viên trùng kiến t?thiền thiên.

CUỘC VẬN ĐỘNG CHO T?DO TÍN NGƯỠNG,
CÔNG BẰNG XÃ HỘI VÀ KÊU GỌI HÒA BÌNH

Ngày 20 tháng 2 năm 1962, Ngài ký cùng một lúc 2 văn thư gửi tổng thống Ngô đình Diệm và Quốc hội đ?phản đối s?k?th?tôn giáo, nhất là v?đàn áp Phật t?tại Cao nguyên Trung nguyên Trung phần. Ngày 20-8-1963, khi chính quyền Ngô đình Diệm cho bắt gi?tù đày Tăng ni Phật t? Ngài từng chia s?s?phận vi Phật giáo đ?trong cuộc vận động chống đàn áp và k?th?tôn giáo. Chính đêm pháp nạn 20-8-63, Ngài đã cùng với Tăng ni Phật t?toàn quốc chịu đựng s?đàn áp khốc liệt đến phải b?thương tích. Mặc dù gặp nhiều áp lực tâm lý và chính tr?t?phía chính quyền suốt trong thời gian b?an trí, Ngài vẫn cương quyết gi?vững ch?trương t?bi bất bạo động.

Qua năm 1964, khi Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất thành lập, toàn th?hội ngh?đã cung thỉnh Ngài lên ngôi v?Tăng Thống. Tuy tuổi già sức yếu, và đã quen nếp sống thanh tịnh nơi T?đình Tường Vân, đức Tăng Thống vì hạnh nguyện li tha đã không quản ngại rời T?đình vào Sài Gòn trú tại chùa Ấn Quang, tr?s?tạm của Giáo Hội, đ?chu toàn Phật s?

Trong những năm k?tiếp khi chiến cuộc Việt nam lên cao đ? gây chết chóc điêu linh cho hằng triệu người dân, Ngài không ngớt kêu gọi hòa bình. Trong bức thông điệp gởi Hội ngh?Quốc t?v?tôn giáo và hòa bình vào tháng 10-1970, Ngài khẳng định: “Ch?có hòa bình mới cứu được nhân loại trong cơn khủng hoảng hiện nay. Ch?có hòa bình mới đem lại s?cảm thông, s?tương thân tương ái, s?thi đua phát triển đạo lý giữa các đại tiểu quốc, cũng như các giai tầng xã hội. Ch?có hòa bình mới đem lại cho con người vận dụng sức mạnh khoa học, k?thuật đ?phụng s?tốt đẹp con người? Với các th?lực quốc t?đang điều động chiến cuộc tàn khốc tại Việt nam, Ngài khẩn thiết kêu gọi lương tri và tình nhân loại: “Tôi kêu gọi Hoa k? Liên sô, Trung quốc, 3 đại cường đang ảnh hưởng trực tiếp tới cuộc chiến ?Việt nam và đang cung cấp vũ khí cho các phe đối chiến, hãy vì s?an nguy của th?giới, vì s?diệt chủng của một dân tộc mà tìm s?thỏa hiệp với nhau đ?ngừng cung cấp chiến c?vào Việt nam, rồi dùng th?lực của mình mà sớm kết thúc cuộc chiến ?Việt nam đi. Tôi kêu gọi toàn th?th?giới, nhất là t?chức Liên hiệp quốc, hãy tích cực hơn nữa trong công cuộc vận động chấm dứt chiến tranh ?Việt nam, đ?tạo s?quân bình cho th?giới? (Thông điệp Phật đản 2516). Với chính quyền hai miền Nam Bắc Việt nam thì Ngài kêu gọi đến lương tri và tình dân tộc: “Chúng tôi kêu gọi chính ph?của 2 miền Nam Bắc Việt nam và các th?lực quốc t?có liên h?tới cuộc chiến tranh Việt nam, hãy ngưng những cuộc bắn giết dân chúng Việt nam, hãy ngưng việc xô đẩy nhân dân Việt nam vào vòng chiến tranh một cách cưỡng bách, ngụy trang dưới hình thức pháp lý hoặc lý tưởng này n? Xin hãy thành thật dùng đường lối NGOẠI GIAO HÒA BÌNH đ?sớm giải quyết vấn đ?chiến tranh Việt nam, mà cơ hội đã m?ra tại hòa hội Paris? (Lời kêu gọi ngưng bắn ngày 20-6-68). Với quần chúng Phật t?nói riêng và nhân dân Việt nam nói chung, Ngài kêu gọi tới s?sáng suốt ch?động. Trong Thông điệp đầu năm Canh tuất, Ngài nhắn nh? “Con người hãy dùng trí hu?đ?đãi lọc, lựa chọn và dung hóa các luồng tư tưởng, các đường hướng chính tr?đang ảnh hưởng tới chính mình, đ?không làm nô l?mà cốt vận dụng chúng, vận dụng những điều tốt đẹp lợi ích của chúng vào công việc phục v?con người, dân tộc và nhân loại. Tôi kêu gọi toàn th?đồng bào Việt nam hãy sáng suốt đ?t?cứu mình và cứu dân tộc. S?chia r?tôn giáo, đảng phái, địa phương, là mối nguy lớn làm tê liệt dân tộc ta, làm cho chúng ta mất ch?quyền và mất ánh sáng. Phải nhìn nhận rằng, nếu các th?lực bên ngoài có th?nhúng tay vào nội tình Việt nam, phần lớn lỗi ?chúng ta không biết thương nhau, không biết tới s?sống đích thực và kiêu hùng của dân tộc mà ch?biết nghĩ tới quyền lợi và t?ái riêng tư? (Thông điệp đầu xuân 1968).

CH?TRƯƠNG HÓA GIẢI

Đ?tr?v?với truyền thống dân tộc và hóa giải hận thù, Ngài tha thiết kêu gọi người Việt hãy đ?cao Sức Mạnh Hóa Giải: “Lịch s?đã chứng minh: Dân tộc Việt nam có sức hóa giải bền b?phi thường. Sức hóa giải đó là bản chất dân tộc và cũng chính là bản chất Phật Giáo. Vì Phật Giáo được xây dựng trên tinh thần T?Bi, Trí Tu?và Hùng Lực, Việt nam vượt qua được những giai đoạn b?đồng hóa là nh??đức bao dung, s?đãi lọc và lòng kiên trì phát triển: Chính nh??những căn bản quí giá đó mà đã hơn một lần Phật giáo tr?duyên cho dân tộc hóa giải nổi những lối sống xuất th?và nhập th?của các luồng tư tưởng đông phương, tạo ra s?quân bình tư tưởng cho Việt nam dưới thời t?ch?Lý-Trần, kéo dài trên 3 th?kỷ? (Thông điệp S?MỆNH HÒA BÌNH nhân dịp Phật Đản 2513). Song song với việc kêu gọi hòa bình, Ngài không quên khuyến cáo các Phật t?hãy sáng suốt, đừng đ?cho bất c?phe phái nào đang lợi dụng chiêu bài hòa bình khuynh loát. Ngài nhắc nh?Phật giáo đ?ý thức trách nhiệm mình đối với dân tộc, và kêu gọi tinh thần t?giác: “Phật giáo, một tôn giáo lớn tại Việt nam, bao gi?cũng chiếm tới đại đa s?dân chúng trong nước. Do đây, vai trò Phật giáo lúc này thật hết sức quan trọng. Chúng ta phải noi gương Tiền nhân mà đảm nhận s?mạng QUY T?SỨC MẠNH DÂN TỘC đ?hóa giải những xung đột nội tại Quốc gia, bằng không, tất phải b?dồn vào v?th?phân hóa? (Thông điệp Xuân Quý Sửu). Đ?thực hiện công cuộc Hóa Giải ấy, Ngài nhắn nh?Phật giáo đ?hãy nh?đến truyền thống bất khuất của dân tộc, đ?tăng thêm niềm tin, vững thêm ngh?lực: “Trong dòng sinh mệnh Việt nam, dân tộc này đã trường k?kiên nhẫn hóa giải mọi ý h?xung đột ngoại nhập, đ?bồi đắp và làm sáng, làm mới cho nền văn hóa Việt, thì đến nay chúng ta cũng không th?làm khác được những gì lịch s?đã làm. Chúng ta cần đ?kháng những ý h?ngoại nhập, nhưng không phải như th?là đ?ph?nhận toàn b? mà là đãi lọc lấy tinh túy của tất c? dung hóa tất c? biến tất c?thành chất liệu bồi dưỡng cho tinh thần Việt nam?/em>. (Thông điệp Xuân Nhâm tý). Trước nỗi thống kh?lan tràn Ngài thống thiết kêu gọi những người con dân Việt đừng gây kh?cho nhau: “Cuộc đời hiện hữu là một biển kh?mênh mông, tôi xin tất c?chúng ta, đừng bao gi?làm kh?mình, làm kh?thân quyến, làm kh?đồng loại, làm kh?chúng sinh ?Vì tất c?đều đáng thương, đều cần phải sống xứng đáng cho trọn kiếp người, tất c?đều đáng tôn trọng và cần được phụng sự? (Thông điệp Ý LỰC T?GIÁC đầu Xuân Quý sửu). Cuối cùng, Ngài không quên nhắc nh?Phật giáo đ?cũng như Tăng Ni hãy bắt đầu t?bản thân, bằng cách sống đúng theo giới luật, thực hiện hạnh t?bi cứu kh?song song với việc tu niệm nguyện cầu cho hòa bình đích thực sớm tr?v?

NHIẾP HÓA Đ?CHÚNG

Mặc dù công việc đối ngoại của Giáo Hội đa đoan, Ngài vẫn không bao gi?xao lãng việc nhiếp hóa đ?chúng tùy căn cơ trình đ? Trong một mùa an cư, Ngài đã gởi đến quí v?đại đức tăng ni những lời huấn d?như sau: “Đạo Phật tồn tại không ch?y c?vào những hình thức chùa tháp, l?nghi, kinh điển ?mặc dù kinh điển là kim ch?nam hướng dẫn ta trên đường đi tới đạo qu?vô thượng B?đ? Nhưng s?tồn tại đích thực chính là s?th?hiện đạo phong, những nếp sống gương mẫu của các bậc tăng già nghiêm trì giới luật và biết tận lực phục v?chính pháp đ?chính Pháp mãi mãi tồn tại với con người, cuộc đời và làm lợi ích cho chúng sinh? Và có lần Ngài gửi huấn d?cho một đ?t??hải ngoại: “Vạn vật biến chuyển không ngừng, dục vọng con người khởi diệt th?nào con đã rõ. Bên trong thì tâm niệm sát na vô thường, bên ngoài thì thanh sắc quyến rũ mãnh liệt, trong không ch?nương, ngoài không ch?tựa, bậc trượng phu giữa đời lại hiếm có, t?mình d?cảm thấy l?loi. Nếu không phải là người nuôi chí xuất trần, quyết lánh vọng tìm chân, thì thật khó bảo toàn chí nguyện sơ tâm vậy? Đối với những đ?đ?được diễm phúc sống gần gũi bên Ngài đều cảm nhận. Ngài là hiện thân của một “Bài thuyết pháp hùng vĩ linh động?qua đạo phong cốt cách, qua những lời giáo huấn vàng ngọc đ?cao trí tu?và đức t?ch?t?giác. Ngài luôn luôn khuyến khích s?học hỏi Phật pháp cũng như th?gian pháp, nhưng đồng thời Ngài vẫn thường khuyên các môn đ?đừng rơi vào cạm bẫy của tri thức suông. Trong việc tu trì, Ngài khuyên đ?t?hãy luôn luôn nhiếp tâm chánh niệm trong bốn uy nghi vào tất c?các thời và phải t?ch?đối với pháp môn tu tập, ch?đ?b?pháp chuyển. Ngài khuyên môn đ?sau mỗi thời tụng kinh, l?bái hay niệm Phật, nên tập ngồi thiền, đ?tâm an tr??ch?vắng lặng, không nghĩ thiện, không nghĩ ác, đừng mãi bám víu vào một câu trì chú hay niệm Phật. Ngài thường khuyên dạy bằng một lời vắn tắt: “Gắng t?làm ch?lấy?/em>. Đối với những Phật t?tại gia phải gánh vác nhiều bổn phận, Ngài khuyên một phương pháp giản d? mỗi tối trước khi ng? hãy ngồi thẳng trên giường, chí thành thu thiết niệm thong th?10 lần câu hồng danh NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT. Trong những năm sau này, khi một s?đông Tăng Ni còn sơ cơ phải ra làm công tác xã hội thực thi hành cứu kh? Ngài không ngừng khuyên hãy thận trọng gìn gi?sơ tâm, nghiêm trì giới luật. Ngài nhấn mạnh phương châm “Tùy duyên bất biến?và khuyên đ?t?đừng bao gi?lợi dụng địa v? tuổi tr? chức phận mà d?dãi với bản thân và làm những chuyện phương hại đến đạo nghiệp. Trong những năm gần đây, khi tuổi đã già, sức đã kiệt. Ngài thường dạy đ?t? “Trước, ta dạy các con bằng lời nói, có khi bằng roi gậy, nhưng nay thì ta dạy bằng s?im lặng? Ai đã từng có duyên lành hầu cận Ngài, đều phải công nhận Ngài có một uy nghi hùng vĩ trong tất c?các thời. Mặc dù già yếu, Ngài luôn luôn ngồi thẳng người theo th?nhập định. Dáng đi oai v?như sư t?chúa. Đôi tay dài quá gối buông thẳng khoan thai mỗi khi Ngài đi bách b? Đôi mắt luôn luôn nhìn thẳng uy nghiêm. Và đặc biệt, Ngài rất ít khi ngồi ?ch?không phải ch?ngồi thường nhật của Ngài trong t?viện. Th?nên ch?Ngài ngồi trong T?đình Tường Vân đã tr?thành một nơi thiêng liêng đối với Phật t?miền Trung. Dù cho Ngài phải xa x?Hu?trong nhiều năm, nhưng suốt thời gian này, và có l?mãi mãi t?đây, Phật t?nào bước chân đến T?đình cũng vẫn t?nhiên cúi đầu cung kính khi đi ngang qua pháp tòa của Ngài là b?phản g?đơn sơ. Một làn hương không tên nhưng có thật, tỏa ra t?nơi thiêng liêng ấy, khiến mọi người phải cúi đầu úy phục, không dám bước mạnh nói lớn hay có những c?ch?thiếu uy nghi hay ngay c?một tâm niệm bất chính. Làn hương đó có l?là di tích vô hình, vô thanh, vô hướng, nhưng linh động nhất của Ngài, đó là làn hương của Giới, Định, Tu?làn hương của hạnh kham nhẫn, của đức giải thoát vô vi. Trong những tháng Ngài ngọa bệnh phải vào điều tr?tại dưỡng đường Duy Tân và Sùng Chính, những lúc bệnh tình trầm trọng, đ?t?có thăm hỏi: “Bạch C? C?có mệt lắm không??/em> thì Ngài tr?lời: “Thân ta mệt, nhưng tâm ta thì không? Hạnh giải thoát vô vi của Ngài biểu l?trong đức tính “Tùy duyên nhiếp hóa? Ngài không bao gi?tham cầu đ?t?hay nghĩ đến việc m?mang ngôi T?đình cho lớn rộng. Hình thức, nghi l?không phải là mối quan tâm chính yếu của Ngài. Nhưng có l?do định luật y báo, chính báo không rời nhau, nên Ngài đến đâu thì trang nghiêm y báo, đ?chúng sum vầy, đông đúc, mừng vui như con thơ gặp lại m?hiền, như nắng hạn gặp cơn mưa lớn. Ngôi T?đình Tường Vân đã bao năm điêu tàn vì thời gian và chiến cuộc nhưng Ngài không bao gi?cho phép đ?đ?quyên góp trùng tu, vì cảm thông tình trạng kinh t?eo hẹp của Phật giáo đ?hiện tại. Mãi đến gần đây, trong thời gian Ngài xa Hu? một s?đ?t?thân tín mới thi công tái thiết. L?khánh thành sp t?chức thì được tin Ngài t?ý mong tr?v? và những căn rạp dựng lên cho cuộc khánh thành, than ôi, bây gi?lại được s?dụng cho tang l?

NHỮNG NGÀY CUỐI CÙNG

Mãi cho đến ngày rằm tháng 11 năm Nhâm tý, t?Sài gòn (lúc bấy gi?Ngài an trú tại Tu viện Quảng Hương Già lam, do Hòa thượng Thích Trí Th?làm giám viện) Ngài quyết liệt bày t?ý muốn tr?v?Hu? Trong lúc Hội đồng lưỡng viện tới làm l?tiễn đưa Ngài v?Hu? Thượng tọa c?Viện trưởng Thích Thiện Hoa có bạch: “Xin cung thỉnh Đức Tăng Thống sau khi v?thăm c?đô ít ngày, rồi xin Ngài tr?lại th?đô đ?lãnh đạo Giáo Hội? Ngài nghiễm nhiên đáp: “Thôi, tôi không vô nữa?

Sau khi tr?v?c?đô, Ngài lần lượt viếng thăm các T?đình Hu?như Thuyền Tôn, Tây Thiên, T?Đàm, Báo Quốc, Linh Quang, Quốc Ân, Kim Tiên .v.v?Không ng? lần viếng thăm này lại là lần vĩnh biệt cuối cùng! Trong dịp đầu Xuân Quý sửu, khi quý v?Thượng tọa Giáo hội Phật giáo Thừa thiên đến T?đình Tường Vân đảnh l?chúc th?đầu năm, dường như linh cảm trước s?ra v?vĩnh viễn, Ngài đã ân cần phú chúc những lời huấn d?hết sức cảm động: “TÔI THẤY SỨC KHỎE TÔI ĐÃ KÉM NHIỀU. TÔI KHUYÊN CÁC TĂNG NI PHẬT T?C?GẮNG LO VIỆC TU HÀNH Đ?BÁO ĐÁP CÔNG ƠN TAM BẢO, THƯƠNG MẾN MÀ ĐOÀN KẾT VỚI NHAU Đ?XÂY DỰNG GIÁO HỘI VÀ GÓP PHẦN VÀO NỀN HÒA BÌNH DÂN TỘC? Ngài khuyên nh?Tăng Ni c?gắng nghiêm trì giới luật đ?gi?gìn mối đạo và đừng b?rơi chúng sinh, thời mạt pháp.

Ch?sau vài ngày pháp th?khiếm an, Ngài an tường x?báo thân vào lúc 20 gi?45 phút ngày 23 tháng giêng năm Quý sửu (nhằm 25-12-1973).

Ngài không lưu lại bài k?phú pháp nào, đúng theo một hạnh vô vi, song bài thơ của Ngài sau đây đ?nói lên tôn ch?“T?ch? t?giác?của Ngài trong việc tu hành, kh?dĩ làm ch?nam cho môn đ?

Pháp thân vô trọng diệc vô khinh
Ch?v?đa sanh hoặc tập tành
Nhất niệm hồi quang tri lụy kiếp
Lục căn thanh tịnh liễu tâm kinh
Ưng tiêu vọng tưởng chơn vô ngã
Th?ng?thuyền quang hiệp th?tình
Dục thám huyền vi công t?tỉnh
Hà lao hướng viện vấn thuyền huynh.

Tạm dịch:

Pháp thân không trọng cũng không khinh
Phân biệt do mê hoặc nghiệp thành
Một niệm hồi quang, lụy chương dứt
Sáu căn thanh tịnh, rõ tâm kinh
Nên tiêu vọng tưởng, chơn vô ngã
Mới biết đạo kia hiệp th?tình
Muôn ng?là mầu, tâm t?tính
Ích chi đến việc hỏi thuyền huynh?

Ngài tr?th?83 năm, h?lạp 64. Việc tôn trí bảo tháp đã do một s?Phật giáo đ?phụng lập tại khuôn viên T?đình Tường Vân. Và bài châm khắc trên tháp do c?Hòa thượng Qui Thiện tr?tác cho chư Tăng ?c?đô Hu?tán thán công đức Ngài và Hòa thượng Tịnh Hạnh (anh Ngài) ví như Vô Trước và Th?Thân của thời mạt pháp.

Hương giang chi nguyệt
Sơn xuyên dục tú
Giác trần th?huyễn
Nghi huynh nghi đ?/span>
Chấn khởi thuyền phong
Hóa mãn diêm phù
Vận án trường thiên
Hu?chúc t?phàm
Vi giáo hội ch?/span>
Giáo lưu nam đ?/span>
Pháp hoằng gia v?/span>
Nghi doan biểu chính
Bổng xướng tùy nghi
Thanh tịnh nan danh
Phật pháp đồng lương
Tuyển Phật trang trung,
Xuân thành hậu tán
Vô nhi biểu thành
Nguyên thùy liên nhãn
Vinh phụng trần sát
Ng?linh chi vân
Đĩnh xuất K?nhân
Duy đạo vi trân
Vô Trước Thiên Thân
Chiết phục tà thái
K?huynh nan tái
Ba cuồng đại hải
Duy sư th?lại
Vi chúng trung tôn
Thục d?t?luân.
Đạo k?tông môn
Mục kích đạo tồn.
Nhân hàm kính ngưỡng
Ứng dụng vô lượng
Tông môn bảo chưởng
L?tôn Hòa thượng.
Cửu ph?đức âm
Kiền b?chuyết châm
Ph?giám qu?thầm
Tương th?thâm tâm.

(Tạm dịch: Trăng sông Hương, mây núi Ng? tinh anh sông núi khéo đúc nên bậc khác thường. Giác ng?trần lao như huyễn, chí Đạo là qúi. Xứng huynh xứng đ?như Vô Trước, Thiên Thân. Chấn hưng thiền phong, chuyết phục tà thái. Hóa đ?cõi Ta bà đã xong, thì anh Ngài v?châu Phật. Than ôi! Mây ph?ngất trời, sóng gầm biển lớn. Đuốc tu?thuyền t?ch?còn Ngài làm ch?cậy nương. Làm pháp ch?Giáo hội, bậc chúng trung tôn. Giáo pháp lưu truyền đất Nam, mấy ai sánh kịp. Xem việc hoằng pháp là việc nhà, nối tiếp đạo thống tông môn. Hình nghi đoan chánh, mắt trừng ánh đạo, đánh hét tùy cơ nghi. Người người kính ngưỡng. Thanh tịnh khó bàn, ứng dụng vô lượng, đống lương của Phật pháp, bình phong che ch?tông môn. Trong trường tuyển Phật, suy tôn Hòa thượng. K?hậu lai ?c?đô t?lâu nương nh?âm đức, không biết lấy gì bày t?lòng thành, xin cung soạn bài châm vụng v?này, ngưỡng mong Ngài h?c?chứng giám lòng tinh thành, nguyện đem thâm tâm này vĩnh viễn phụng s?chúng sinh).

Ngoài ra, c?Phan Bội Châu lúc sinh tiền là bạn tâm giao với Ngài có đ?tặng bài thơ ca ngợi như sau:

Tiền thân chủng xuất t?Bồng lai
Di hướng B?Đ?viện lý tài
Tô nhụy quang tranh đồng d?tuyết
K?phương phẩm đoạt lãnh đầu mai
Hương chân vương gi?thiên thùy thưởng
Trang t?thường nga nguyệt ám xai
Duy Phật tùng lai năng thức Phật
Ân cần hu?ngã th?hoa khôi.
(PHAN SÀO NAM)

Hòa thượng th?đ?cho hơn 50 v?đ?t?xuất gia và vô s?đ?t?tại gia. Trong hàng ngũ xuất gia, có nhiều v?đã ra hoằng dương chính pháp, tiếp nối hạnh nguyện lợi tha của Ngài như Thượng tọa Thích Chánh Pháp, Thượng tọa Thích Minh Châu, Đại đức Thích Chơn Thức vv?và một s?Ni hữu danh trong Ni giới.

Phật Giáo Việt Nam đã chuyển mình và đứng ra nhận lãnh trọng trách của mình đối với dân, tộc. Phật Giáo Việt Nam đã có mặt trong mọi biến c?lịch s?với cương v?một tôn giáo dân tộc, một sức mạnh tín ngưỡng ái quốc. Dưới s?lãnh đạo trầm tĩnh và uy dũng của Ngài. Ngài không phải ch?là một vì sao định hướng t?trời cao mà còn là một k?dấn thân đ?dẫn đạo và trực tiếp vạch đường lối dấn thân. Ngài đã lái con thuyền đạo pháp qua bao cơn phong ba bão táp của lịch s? bên trong thì chân chính tông môn, bên ngoài thì vận động hóa giải những th?lực thù nghịch đ?mưu cầu hòa bình cho đất nước và nhân loại.

Vì sao đó hôm nay đã khuất bóng, nhưng ánh sáng vẫn còn và còn soi t?mãi cho hành trình thực hiện s?mệnh cao c?Phật Giáo Việt Nam đối với lịch s?và nhân loại thời hiện đại: S?MỆNH HÓA GIẢI.

____________________________

Nguồn: //thuvienphatviet.com/tieu-su-ht-thich-tinh-khiet/

___________________

MỘT S?DI ẢNH CỦA HÒA THƯỢNG Đ?NHẤT TĂNG THỐNG GHPGVNTN

qh88 Lin k?t ??ng nh?p

Chân dung Đức Tăng thống. (tranh Sơn dầu của Chơn Thuần)

Chân dung Ngài (vào thập niên 1930)

Chân dung Ngài (năm 1950)

Chân dung Ngài (năm 1968)

Các chân dung của Ngài (năm 1970)

Chân dung Ngài (năm 1971)

Giác linh đài Đức Tăng thống (tại Thiền đường T?đình Tường Vân)

Bảo tháp của Đức Đ?nhất Tăng thống.

]]>
Nhân vật Phật Giáo – Trang nhà GĐPT Việt Nam | Gia Đình Phật T?Việt Nam //sevalyilmaz.com/tam-y-nghia-cua-dai-le-phat-dan.gdpt Sun, 27 May 2018 03:34:52 +0000 //sevalyilmaz.com/?p=52911
  • Ý NGHĨA TH?NHẤT CỦA ĐẠI L?PHẬT ĐẢN
  • Đức Phật xem ngày ra đời là đ?khơi m?tu?giác cho hết thảy chúng sinh: Tất c?chúng sinh đều có Phật tính, tất c?chúng sinh đều có trí tu? nhưng trí tu?đã b?chôn vùi bởi hàng hàng, lớp lớp vô minh. Do đó, s?xuất hiện Đức Phật trong cõi đời này là đ?khơi m?trí tu?cho chúng ta, cho hết thảy chúng sinh, phá tr?tất c?màn hắc ám vô minh đó, đ?cho hết thảy chúng ta nhận ra được Phật tính ?nơi chúng ta, nhận ra được trí tu??nơi mỗi chúng ta. Tất c?chúng ta đều là d?thương, hết thảy chúng sinh đều là d?thương. Nhưng mà, chúng ta có th?làm cho chúng ta xấu đi, mọi người có th?làm cho chính h?xấu đi do tâm ích k? tâm hờn giận. Tâm ích k? tâm hờn giận làm cho chính chúng ta xấu đi, làm cho chúng ta không còn d?thương nữa. Tâm ích k? tâm hờn giận làm cho hết thảy chúng sinh không còn là chúng sinh d?thương nữa.
    1. Ý nghĩa th?hai đại l?Phật Đản
    Đức Phật ra đời khiến cho chúng sinh, dạy cho chúng sinh thành tựu được giác ng?ngay ?trong đời sống của chính mình. Giác ng?là giác ng?ngay trong đời sống của chính mình, ngoài đời sống của chính mình ra không có đời sống giác ng?nào đ?cho chúng ta đi tìm kiếm. Chúng ta có th?tìm kiếm là tìm kiếm giác ng?ngay ?thân và tâm của chúng ta. Chúng ta có th?đi tìm giác ng?ngay trong đời sống của chúng ta, chúng ta không th?vứt b?cách đi, cách đứng, cách nằm, cách ngồi, cách tiếp xúc giao tiếp hằng ngày của chúng ta mà có s?giác ng? Do đó, Đức Phật đã ch?rõ cho chúng ta rằng, đời sống của chúng ta, dù một k?tầm thường đến mức nào đi nữa cũng có kh?năng giác ng? Một người đau kh?tột cùng cũng có th?vươn mình đi đến đời sống hạnh phúc, an lạc. Dù một k?rất tầm thường cũng có th?vươn mình đi đến đời sống thánh thiện, cao thượng. Điều đó, Đức Phật đã dạy cho chúng ta, cho hết thảy chúng sinh hơn hai mươi lăm th?k? Trong lịch s? cũng như trong đời sống thực t? chúng ta đã thấy bao nhiêu k?trong đời sống tầm thường, h?không gặp Phật pháp, h?không nghe được lời giáo huấn cao quý của những Bậc phạm hạnh, nhưng khi h?gặp được thì h?có cơ duyên tr?thành người cao quý Nếu mình hiểu được đạo, giác ng?được đạo, thì bao nhiêu xấu xa, bao nhiêu cái tầm thường ?trong đời sống cu?mình cũng được chuyển hóa thành cái cao thượng, có ý nghĩa.
    1. Ý nghĩa th?ba của đại l?Phật Đản
    Đức Phật ra đời là đ?ch?bày cho chúng ta một con đường hạnh phúc. Đức Phật ra đời là ch?bày cho chúng ta một con đường an lạc và nhận diện được đâu là con đường hạnh phúc, đâu là con đường kh?đau, đâu là giá tr?cao quý, đâu là không có giá tr??trong cuộc sống của chúng ta. Đức Phật đã ch?cho chúng ta thấy rằng, một đời sống có th?tr?thành cao quý khi lời nói, hành động, việc làm của h?được phát xuất t?một tâm hồn cao quý. Đức Phật đã ch?bày cho chúng ta cũng như tất c?chúng sinh thấy rõ rằng, lời nói tầm thường, hành động tầm thường, việc làm tầm thường có gốc r?t?nơi một tâm hồn tầm thường Muốn bảo toàn hạnh phúc, muốn bảo toàn an lạc, Đức Phật đã ch?bày cho chúng ta rất rõ là phải nuôi dưỡng tâm hồn t? bi, h? x? Chúng ta muốn hạnh phúc, an lạc mà không biết nuôi dưỡng tâm hồn t? bi, h? x?thì hạnh phúc, an lạc không th?nào có được. Điều đó, Đức Phật đã ch?bày cho chúng ta cách đây hơn hai mươi lăm th?k? Và hai mươi lăm th?k?như vậy, những người nghe lời Đức Phật dạy, h?hành trì, h?thực tập và chính những người đó đã có hạnh phúc, an lạc, không những hạnh phúc, an lạc ?đời sau mà hạnh phúc, an lạc ngay trong đời này.
    1. Ý nghĩa th?tư đại l?Phật Đản
    Đức Phật ra đời dạy d? giáo hóa, dìu dắt, hướng dẫn khiến cho chúng ta và hết thảy chúng sinh đều sống cuộc đời như Đức Phật đã sống. Nghĩa là, Đức Phật đã sống như th?nào, Đức Phật biết như th?nào thì Ngài sống như th?đó, Ngài nói như th?nào, thì Ngài làm như th?đó. Ngài làm như th?nào, thì Ngài nói như th?đó. Ngài biết rằng tham là nguy hiểm, tham là mất nhân cách, tham là làm cho mình nghèo đi, Ngài biết như vậy cho nên ngài không tham. Còn ai thấy tham làm cho mình giàu , làm cho mình hạnh phúc thì người đó c?tham. Nhưng càng tham lam thì lại càng đau kh? càng tham thì lại càng mất nhân cách. Đức Phật nói, càng tham thì lại càng làm cho mình tầm thường, càng tham thì làm cho mình càng nh?nhoi; càng tham thì lại càng làm cho cha con xa nhau, càng tham thì lại càng làm cho v?chồng xa nhau, anh em xa nhau, bạn bè xa nhau. Đức Phật đã nói điều đó hơn hai mươi lăm th?k?và những k?trí ?trong đời, h?đã đón nhận nó và đã sống. Những người nào sống trong đời sống với tâm ly tham thì người đó đầy đ?nhân cách, người đó thật s?hạnh phúc.
    1. Ý nghĩa th?năm đại l?Phật Đản
    Ng?rồi chưa đ? phải th?nhập với Phật tính đó và biểu hiện Phật tính đó trong đời sống hằng ngày của chúng ta. Như vậy ng?rồi thì phải nhập, mà nhập rồi thì phải xuất, nhập mà không xuất thì nghĩa nhập đó không thành. Bởi vì, nhập mà không xuất thì bí, cho nên nhập là phải xuất. Trong kinh phat đã nói t?vô lượng kiếp v?trước, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng hành B?Tát đạo. T?nơi Đức Phật Oai Âm Vương cách đây hàng t?t?kiếp, Đức Phật Thích Ca Mâu Ni đã từng học với Đức Phật Oai Âm Vương. Đức Phật Oai Âm Vương đã từng khai, th? ng? nhập, tri, kiến cho Phật Thích Ca Mâu Ni. Và sau khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni nhập được Phật tri kiến rồi, Ngài bắt đầu xuất ?nơi th?giới Ta Bà này. Xuất ?nơi th?giới Ta Bà này, Ngài vui với cái vui của chúng ta, buồn với cái buồn của chúng ta, Ngài nằm gai nếm mật với chúng ta. Khi Đức Phật Thích Ca Mâu Ni xuất hiện trong mười phương th?giới, xuất hiện trong cõi Ta Bà này là Ngài bắt đầu đi con đường của Thánh đạo, con đường B?Tát đ?đưa mình và hết thảy chúng sinh đi v?với con đường giác ng?
    1. Ý nghĩa th?sáu đại l?Phật Đản
    Tại sao Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài đi bảy bước trên hoa Sen? Một đặc điểm khác nữa của hoa Sen là Hoa n?Sen hiện. Nghĩa là, Đức Phật, dạy giáo pháp của Ngài, nếu chúng ta quyết tâm hành trì, thì s?có an lạc ngay. Không tu thì thôi, tu là tức khắc có an lạc ngay! Cho nên, những ai tu tập mà không có an lạc thì phải coi chừng! Phải tu lại! Tôi tu một gi?là tôi có hạnh phúc một gi? không có lý do gì mà tu một gi?mà không có hạnh phúc, an lạc một gi? Nếu tu một gi?mà kh?đau thì đừng tu, cho nên, tôi tu một gi?là tôi có hạnh phúc, an lạc một gi? đó là hoa n?Sen hiện. Tu một gi?là có hạnh phúc, an lạc một gi? Tu hai gi?là có hạnh phúc, an lạc hai gi? Tu mười năm là có hạnh phúc, an lạc mười năm. Tu một trăm năm là có hạnh phúc, an lạc một trăm năm. Không có lý do gì tu mà kh?c?
    1. Ý nghĩa th?bảy đại l?Phật Đản
    Một đặc điểm nữa là, Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, trên hoa Sen là bởi vì, hoa Sen còn có một đặc điểm nữa là “hoa rụng Sen thành, Hoa n?thì Sen hiện? S?xuất hiện của Đức Phật trên hoa Sen mang ý nghĩa tâm linh, đ?nói cho chúng ta thấy rằng, cái chết là bắt đầu của cái sống, cái sống đây là bắt đầu của cái chết. S?xuất hiện cũng có nghĩa là bắt đầu của một s?ẩn khuất. Ngài ẩn khuất ?nơi th?giới Liên Hoa Đài Tạng thì Ngài có mặt ngay nơi th?giới Ta Bà này. Rụng là rụng t?th?giới Liên Hoa Đài Tạng, mà thành là thành nơi th?giới Ta Bà. Cho nên, đối với cái sống, cái chết ?trong đạo Phật không còn là cái gì nữa đ?chúng ta s?hãi, lo âu. Chúng ta vắng mặt ?nơi này thì ta có mặt ?nơi kia, chúng ta vắng mặt ?nơi gia đình chúng ta thì chúng ta có mặt ?nơi chùa Phước Duyên, chúng ta vắng mặt ?chùa Phước Duyên thì chúng ta có mặt ?nơi gia đình chúng ta. “Hoa rụng Sen thành? B?Tát Tất Đạt Đa vắng mặt ?th?giới Liên Hoa Đài Tạng, thì Ngài có mặt ?nơi th?giới Ta Bà này. Đức Phật vắng mặt ?nơi cõi Ta Bà này, thì Ngài có mặt ?th?giới Liên Hoa Đài Tạng, Đức Phật xuất hiện trên cõi đời này, Ngài không đi trên hoa S? Ngài không đi trên hoa Cúc. Mặc dù, hoa Cúc được xem là biểu tượng cho những nhà ẩn sĩ, đạo sĩ. Nhưng Đức Phật không xuất hiện trên hoa Cúc, mà Ngài ch?xuất hiện trên hoa Sen thôi. Bởi vì, hoa Cúc không phải là vô nhiễm, hoa Cúc không phải là “hoa n?Cúc hiện, hoa rụng Cúc thành? mà ch?có hoa Sen mới có những đặc điểm như th? Cho nên, Đức Phật mới xuất hiện trên hoa Sen và Ngài đi bảy bước.
    1. Ý nghĩa th?tám đại l?Phật Đản
    Chúng ta làm l?k?niệm ngày l?Phật Đản, chúng ta phải làm th?nào đó đ?Đức Phật trong chúng ta phải ra đời mỗi ngày. Chúng ta làm l?Đức Phật đản sinh, nghĩa là chúng ta có kh?năng làm cho Đức Phật trong ta đản sinh mỗi ngày và chúng ta làm được như th?là chúng ta rất giàu!. Ch?chúng ta không đợi 365 ngày mới đến chùa làm l?đản Sinh, Phật t?đâu mà nghèo nàn đến như th? tu hành đâu mà tội nghiệp như th?. Chúng ta có kh?năng làm cho Đức Phật chúng ta ra đời mỗi ngày, thì chúng ta không cần phải xin phép ai đ?t?chức đại l?c? Nhưng vì u mê, chúng ta không làm cho Đức Phật trong chúng ta đản sinh mỗi ngày, nên chúng ta phải xin phép t?chức L?PHẬT ĐẢN. ]]>
    Nhân vật Phật Giáo – Trang nhà GĐPT Việt Nam | Gia Đình Phật T?Việt Nam //sevalyilmaz.com/tieu-su-thanh-tu-dao-dai-duc-thich-thanh-tue-tu-thieu-ngay-13-8-1963.gdpt Sun, 13 Aug 2017 04:03:41 +0000 //sevalyilmaz.com/?p=48528 qh88 Lin k?t ??ng nh?p

    Đại Đức Thích Thanh Tu?xuất thân trong một gia đình trung nông, có truyền thống Phật Giáo, Thầy th?danh là Bùi Huy Chương, sinh năm 1946 tại làng Ba Khê, quận Hải Lăng, tỉnh Quảng Tr? Thân ph?là ông Bùi Dư, thân mẫu là bà Hoàng Th?Phục. Hai ông bà đã quy y và hết sức sùng kính Tam Bảo. M?mất t?lúc Thầy lên 10 tuổi. C?ông ?vậy nuôi con. Thầy có 2 ch?gái lớn và 1 anh trai là Bùi Cầu, quân nhân. Sau Thầy còn 1 em trai út. Năm lên 7 tuổi, Thầy theo học trường làng. Năm lên 10 tuổi, Thầy thi đ?tiểu học và cũng trong năm này, Thầy khá trưởng thành v?mọi mặt, nhất là mặt tri thức và tình cảm. V?mặt tri thức: Thầy đã sớm biết suy tư v?kiếp sống vô thường, chứng kiến khá sâu sắc trong những tháng ngày bơ vơ tình m? V?mặt tình cảm: Thầy rất khát vọng tình người, vì khi lớn khôn, Thầy không được nâng niu cưng dưỡng, sưởi ấm trong bàn tay âu yếm của m?hiền như những bạn bè đồng lứa khác. T?năm lên 13 tuổi, Thầy thường theo thân ph?đi chùa l?Phật, nghe giảng Phật pháp và cũng k?t?đó, Thầy đã cảm hoài đạo Phật, chí nguyện xuất gia bắt đầu chớm phát. Thầy là Đoàn Sinh Gia Đình Phật T?Ba Khê , tỉnh Quảng Tr? Vì hâm m?đạo lý nhà Phật, nên năm lên 14 tuổi (1960), Thầy xin ph?thân xuất gia học đạo, Thầy t?biệt thân quyến lên đường, đến chùa Phước Duyên, thuộc xã Hưng Long, quận Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên bái yết Hòa Thượng Đảnh L?xin được hành điệu. Thấy Thầy tuy tuổi nh? nhưng rất có chí khí và nguyện lực, nên Hòa Thượng chấp nhận cho xuất gia ban Pháp danh là Thanh Tu? Trong thời gian hành điệu, Thầy t?ra cần mẫn, siêng năng tu học, tư cách rất đĩnh đạc, chí khí cao khiết, vì th? nên đã được Hòa Thượng Đảnh L?chăm sóc giáo dục k?lưỡng. Năm 15 tuổi, Thầy được Hòa Thượng cho theo học các lớp Sơ ?Trung Đẳng tại Phật Học Viện Báo Quốc, Hu?và đồng thời heo học các lớp ph?thông trung học tại trường B?Đ?Thành Nội, Hu? Năm 16 tuổi, Thầy được Hòa Thượng Đảnh L?cho làm đ?t?với đ?t?trưởng t?của ngài là Thượng Tọa Thích Tánh Hải và cũng chính trong năm này, Thầy được truyền th?Sa-di giới với Pháp danh Quảng Trí, Pháp t?Thích Thanh Tu? Năm 17 tuổi (1963), Đại Đức thi đ?trung học Đ?Nhất cấp với hạng bình th? Vốn tính tình rất ôn hòa và hiền hậu nên Đại Đức được ngài Thích Đảnh L? tr?trì chùa Cu Võ Đức Phú rất thương yêu. Đặc biệt là Đại Đức rất hiếu thảo với cha m? thường t?ý thương tiếc t?mẫu đã quá vãng sớm. Hằng năm đến ngày rằm tháng 6 là ngày gi?m? dầu cho bận việc th?nào, Đại Đức cũng v?quê tại Hải Lăng, tụng kinh niệm Phật ngày đêm đ?cầu siêu cho m? Cũng chính trong năm 1963 này, Đại Đức đã chứng kiến cảnh đàn áp Phật Giáo Đ?của ch?đ?Ngô Đình Diệm. Phật Giáo Việt Nam bắt đầu dấn thân vào khúc quanh lịch s?vô cùng bi thảm và hùng tráng. Nhằm th?hiện lý tưởng nhất thừa, noi gương ngài Dược Vương B?Tát và k?tục truyền thống gi?nước, v?đạo của các th?h?Phật T?Việt Nam anh hùng tiền bối, các ngọn lửa đại hùng của B?Tát Thích Quảng Đức, Đại Đức Thích Nguyên Hương đã bừng lên đ?soi đường cho Tăng Ni, Phật T?Việt Nam hành động hợp lý. Đại Đức Thích Thanh Tu?cũng k?tục ngọn lửa đại hùng ấy, đã t?thiêu ngày 13.8.1963, (nhằm ngày 24 tháng 6 năm Quý Mão) đ?đẩy mạnh lòng bất khuất, kiên cường đấu tranh của Tăng Ni và Phật T?Việt Nam. Đại Đức t?nguyện chết cho mọi người được sống trong t?do tín ngưỡng, Đại Đức t?nguyện chết đ?yêu cầu chính quyền Tổng Thống Ngô Đình Diệm đáp ứng 5 nguyện vọng của Phật Giáo Đ?Việt Nam. Đêm trước ngày t?thiêu, 12.8.1963, Đại Đức viết 4 bức thư đ?lại, một cho Tổng Thống Ngô Đình Diệm, một cho Tăng-Tín Đ?Phật Giáo, một cho Bổn Sư và Phật T?bổn t? và một cho gia đình. Thư của Thầy viết rất gọn gàng, vắn tắt. Trong bức thư gởi đến Tổng Thống lúc bấy gi? Đại Đức yêu cầu chấm dứt việc khủng b? áp bức Phật T?và phóng thích hết những người b?giam gi? Thầy còn hàm ý rằng chính s?nhục m?và càn r?của bà Ngô Đình Nhu s?làm cho chính quyền sụp đ?và đưa Phật Giáo Đ?đến thành công. Đại Đức viết:

    “Tôi, Tăng Sinh Thích Thanh Tu? 17 tuổi, kính gởi đến ông những nguyện vọng độc nhất trước khi tôi v?cõi Phật:

    1. Hãy chấm dứt mọi tình trạng khủng b?và áp bức Phật Giáo Đ?và th?gấp tất c?những Phật T?b?bắt giam k?t?ngày mồng 8 tháng 5 năm 1963 đến nay.

    1. Hãy giải quyết thỏa đáng gấp những nguyện vọng của Phật Giáo Đ?đã nêu trong các biểu ng?

    1. Triệt đ?không cho bà Ngô Đình Nhu lên đài phát thanh, tiếng nói Việt Nam Cộng Hòa đ?nhục m?Phật Giáo, báng b?c?Hòa Thượng Thích Quảng Đức, vì việc làm ấy không những không làm giảm giá tr?của Phật Giáo, mà trái lại gây s?căm phẫn trong quần chúng?

    Bức thư gởi cho Tăng Ni và toàn th?tín đ?Phật Giáo Việt Nam, Đại Đức nói:

    “Trước khi v?cõi Phật, tôi trân trọng gởi đến quý Ngài lời chào tối hậu và tôi xin thành kính cầu nguyện Hồng ân Tam Bảo, B?Tát Quảng Đức, liệt v?Thánh T?Đạo gia h?quý Ngài pháp th?khinh an đ?đoàn kết chặt ch?sau lưng Hòa Thượng Hội Ch?Thích Tịnh Khiết và Ủy Ban Liên Phái Bảo V?Phật Giáo tranh đấu cho nền tín ngưỡng của dân tộc và yêu cầu chính ph?thực thi những nguyện vọng tối thiểu mà quý Ngài đã ghi trong các biểu ng? trong các báo chí Phật Giáo?

    Đại Đức đã tiên liệu trước, sau s?t?thiêu của mình, gia đình s?gặp nhiều khó khăn do chính quyền tạo ra bằng cách mua chuộc, hoặc khủng b?nên Đại Đức đã viết bức thư gởi gia đình như sau:

    “Con chết đi, Cậu phải đương đầu với mọi đe dọa, nhưng Cậu đừng s? đừng xiêu lòng khi h?dùng những mánh lới khác, mà Cậu phải hy sinh hoàn toàn cho Phật Giáo, dù cho bản thân t?đại của Cậu phải b?diệt vong.

    Lần cuối cùng, con kính lời đến gia đình con, quý bác, chú, thím, cô, dì, cậu, m?và quý anh, ch? em h?hàng thúc bá nội ngoại xa gần lời chúc vĩnh biệt, trước khi con v?cõi Phật?

    Trước ngày t?thiêu 9 hôm, tức là ngày mùng 4.8.1963, nhằm ngày rằm tháng 6 là ngày gi?m? Đại Đức cùng ngài tr?trì Thích Đảnh L?v?quê nhà. Đại Đức tụng niệm suốt đêm ngày đ?cầu siêu cho m?và cũng là lần chót Đại Đức t?giã gia đình v?cõi Phật. 2 gi?khuya 13.8.1963, trong lúc thầy Bổn Sư đi vắng, trước tam quan ngôi chùa Phước Duyên hẻo lánh x?Hu? ngọn lửa đại hùng của Thích Thanh Tu?bừng lên làm tỏa rạng c?một bầu trời đen thẳm. Tăng Ni Phật T?các nơi nghe tin ấy, tấp nập kéo v?chùa Phước Duyên như thác đ?trước khi nhân viên công lực hay tin. H?đến vừa là đ?chiêm bái, cầu nguyện, vừa đ?bảo v?và rước nhục thân của Đại Đức đến T?đình T?Đàm t?chức tang l? Nhưng cảnh sát đã không cho phép đưa di th?người Học Tăng tr?tuổi v?T?Đàm. Chính quyền bấy gi?đã ra lệnh cho các tùy viên mật v? công an, cảnh sát, tấn công một cách tàn bạo vào đoàn người di chuyển nhục thân của Đại Đức, việc xô xát diễn ra trong cuộc đàn áp khiến 25 người dân trong làng đã b?thương, trong s?đó có 5 người phải ch?đi bệnh viện. Công an đã cướp thi hài của Đại Đức ch?đi mất tích khi đoàn rước mới di chuyển đi ngang qua khu vực chùa Linh M? Những k?bạo tàn có th?cướp mất di th?của Đại Đức, nhưng không bao gi?cướp mất được ý chí t?chết cao c?của Người; không bao gi?cướp mất được lòng ngưỡng m?tôn kính của hàng lớp người đối với Người; không bao gi?xóa tan được ý chí t?chết đầy kiêu hãnh, hào hùng của Đại Đức trong dòng lịch s?của Đạo Pháp và Dân Tộc Việt. Đại Đức chết đ?đi vào huyền s? đ?tr?thành bất t?trong lòng người. Chết đ?nói lên rằng, k?yêu chuộng chân lý không bao gi?khuất phục trước bạo tàn. Chấp nhận cái chết là chấp nhận s?đấu tranh đ?bảo v?chân lý đến cùng. T?chết đ?đấu tranh là s?tranh đấu cao nhất của k?b?áp bức, mất hết mọi quyền t?do của mình. Đại Đức nguyện t?chết đ?cho lương tâm, lương tri và tình người sớm được phát sanh nơi tâm hồn bạo chúa đã b?chai lì.

    Trước cái chết như th? t?báo Le Monde của Pháp ra ngày 12.6.1963, đã có lời nhận định v?s?t?thiêu của các Thánh T?Đạo Phật Giáo Việt Nam: “T?sát đ?đấu tranh, k?táo bạo nhất cũng phải lùi bước?/em>.

    oOo theo 50 năm chấn hưng Phật giáo của HT Thích Thiện Hoa ]]>